Ông Nguyễn Sơn Ca, Trưởng ban Pháp chế HĐND tỉnh phát biểu ý kiến đóng góp về
Dự thảo Luật Tổ chức Chính quyền địa phương tại Hội nghị giao ban Thường trực
HĐND các tỉnh, thành phố khu vực Đồng bằng sông Cửu Long lần thứ 23
Ảnh: Thanh Mộng
Tại Khoản 5, Điều 19 dự thảo luật quy định: Hội đồng nhân dân “quyết định biên chế công chức trong cơ quan của Hội đồng nhân dân”. Điều này là rất cần thiết và đúng trách nhiệm, thẩm quyền. Tuy nhiên cần quy định rõ hơn, cụ thể hơn thì mới thuận tiện trong tổ chức thực hiện. Đề nghị sửa lại khoản này như sau: Hội đồng nhân dân
“quyết định số lượng biên chế cán bộ chuyên trách và công chức trong cơ quan của Hội đồng nhân dân đảm bảo thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định”.
Ngoài ra, tại Khoản 5, Điều 19, đề nghị sửa cụm từ: “thôn, tổ dân phố’ thành:
thôn, làng, bản, ấp, khóm, tổ dân phố… (gọi chung là thôn) để thuận tiện hơn trong việc áp luật ở các vùng, miền khác nhau. Do đó đề nghị viết lại khoản 5 như sau:
“Quyết định biên chế công chức trong cơ quan của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập của Ủy ban nhân dân các cấp trên địa bàn tỉnh theo chỉ tiêu biên chế được Chính phủ giao, phù hợp với yêu cầu phát triển và khả năng ngân sách của địa phương; quyết định số lượng và mức phụ cấp đối với người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn và ở thôn, làng, bản, ấp, khóm, tổ dân phố… (gọi chung là thôn) theo quy định của Chính phủ”.
Khoản 1, Điều 23 của dự thảo luật quy định về “Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân tỉnh trong việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội” đề nghị bổ sung cụm từ “
và an ninh” vào sau cụm từ: “Quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện nhiệm vụ quốc phòng”. Viết lại Khoản 1 điều này như sau: “
1. Quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và an ninh; tăng cường quốc phòng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tội phạm, các hành vi vi phạm pháp luật khác, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh”.
Tại Khoản 1, Điều 63 về “Cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân xã”, về số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân xã quy định ở điểm a, khoản này: “a) Xã miền núi và hải đảo có dưới 01 nghìn dân được bầu 15 đại biểu”. Quy định số lượng 15 đại biểu là ít quá, nên quy định phải từ 20 đại biểu trở lên mới đảm bảo việc thảo luận và biểu quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền của cấp xã.
Khoản 1, Điều 23 của dự thảo luật quy định về cơ cấu của Thường trực Hội đồng nhân dân xã gồm “Chủ tịch Hội đồng nhân dân, một Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân”. Quy định này chưa có gì mới so với luật hiện hành. Đề nghị bổ sung quy định: “
Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách”. Đồng thời, để đảm bảo cho hoạt động của HĐND cấp xã đạt hiệu quả đề nghị cân nhắc bổ sung thêm một ủy viên chuyên trách công tác HĐND ở cấp xã.
Tại Khoản Điều 91 về “Trình tự thông qua dự thảo nghị quyết, đề án, báo cáo tại kỳ họp Hồi đông nhân dân”, dự thảo luật quy định: “1. Đại diện cơ quan, tổ chức trình dự thảo nghị quyết, đề án, báo cáo thuyết trình trước Hội đồng nhân dân”. Quy định như dự thảo là không khả thi vì không có đủ thời gian để mỗi cơ quan, tổ chức trình dự thảo nghị quyết, đề án, báo cáo thuyết trình trước Hội đồng nhân dân theo trình tự này. Đề nghị giao việc này cho Đoàn thư ký trình bày tại kỳ họp.
Cuối Khoản 4, Điều 91 có quy định: “Cơ quan, tổ chức trình văn bản báo cáo về việc tiếp thu, chỉnh lý theo ý kiến của đại biểu Hội đồng nhân dân”. Việc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo nghị quyết, đề án, báo cáo tại kỳ họp trước khi thông qua chính thức đề nghị giao cho Đoàn thư ký thực hiện, vì tại kỳ họp các đại biểu đã thảo luận, xem xét kỹ lưỡng và không có thời gian để Cơ quan, tổ chức trình văn bản báo cáo về việc tiếp thu, chỉnh lý trước khi Hội đồng nhân dân thông qua chính thức. Từ đó đề nghị viết lại như sau: “
4. Trong quá trình thảo luận tại phiên họp toàn thể, Chủ tọa có thể nêu những vấn đề còn có ý kiến khác nhau để Hội đồng nhân dân xem xét, quyết định. Khi cần thiết, Hội đồng nhân dân yêu cầu cơ quan hữu quan báo cáo giải trình về những vấn đề mà đại biểu Hội đồng nhân dân quan tâm. Đoàn thư ký tiếp thu, chỉnh lý theo ý kiến của đại biểu Hội đồng nhân dân”.
Cuối Khoản 5, Điều 91 có quy định: “Hội đồng nhân dân biểu quyết thông qua dự thảo nghị quyết, đề án, báo cáo bằng cách biểu quyết từng vấn đề, sau đó biểu quyết toàn bộ hoặc nghe đọc toàn văn rồi biểu quyết toàn bộ một lần hoặc biểu quyết những vấn đề còn có ý kiến khác nhau rồi biểu quyết toàn bộ”. Đề nghị viết lại như sau: “
Hội đồng nhân dân biểu quyết thông qua dự thảo nghị quyết, đề án, báo cáo bằng cách biểu quyết từng vấn đề, sau đó biểu quyết toàn bộ hoặc nghe đọc toàn văn rồi biểu quyết toàn bộ một lần hoặc biểu quyết những vấn đề còn có ý kiến khác nhau rồi biểu quyết thông qua toàn bộ dự thảo nghị quyết, đề án, báo cáo”.
Tại Khoản 1, Điều 102 về “Quyền chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân”, dự thảo luật quy định: “1. Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Trưởng các Ban của Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân và các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân, Chánh án Toà án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân. Người bị chất vấn phải trả lời về những vấn đề mà đại biểu Hội đồng nhân dân chất vấn”. Đề nghị bổ sung thêm một nhóm đối tượng khác là “
thủ trưởng các cơ quan nhà nước khác đóng trên địa bàn” như: các cơ quan nhà nước thuộc hệ thống dọc (Cục Thi hành án dân sự, Cục Thuế, hải quan, Ngân hàng nhà nước…) Vì việc chất vấn nhóm đối tượng là rất cần thiết, và trên thực tế đại biểu Hội đồng nhân dân vẫn thực hiện chất vấn đối với thủ trưởng các cơ quan này.
Khoản 3, Điều 113, đề nghị bổ sung các “
tổ chức chính trị - xã hội” vào nhóm đối tượng giám sát của các Ban Hội đồng nhân dân. Viết lại Khoản 3 như sau: “
3. Giúp Hội đồng nhân dân giám sát hoạt động của Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát hoạt động của Uỷ ban nhân dân và các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân trong các lĩnh vực phụ trách; giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân trong việc thi hành Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp về lĩnh vực phụ trách do Hội đồng nhân dân hoặc Thường trực Hội đồng nhân dân phân công”.
Khoản 5, Điều 115 đề nghị bổ sung cụm từ: “
của ban để trình kỳ họp”. Viết lại Khoản 3 như sau: “
3. Nội dung của báo cáo thẩm tra của ban để trình kỳ họp phải nêu được ý kiến đánh giá của Ban về dự thảo nghị quyết, báo cáo, dự án, đề án, những vấn đề được Ban nhất trí, không nhất trí và còn có ý kiến khác nhau, những kiến nghị sửa đổi, bổ sung”.
Điều 116 đề nghị sửa đổi, bổ sung một số cụm từ và viết lại như: “
Tổ đại biểu Hội đồng nhân cấp tỉnh có trách nhiệm nghiên cứu tài liệu, chuẩn bị ý kiến đóng góp cho kỳ họp Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; tổ chức cho đại biểu tiếp xúc cử tri, thu thập ý kiến và nguyện vọng của cử tri trước và sau kỳ họp Hội đồng nhân dân và để đại biểu Hội đồng nhân dân tiếp xúc cử tri, báo cáo với cử tri về kết quả kỳ họp sau kỳ họp Hội đồng nhân dân”.
Đề nghị trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương bổ sung quy định về cơ quan giúp việc cho HĐND và đưa thành một điều riêng trong luật này.
Nguyễn Sơn Ca